CHIA DI SẢN TRONG NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHỨC TẠP: TÌNH HUỐNG 25 – 26 – 27 – 28

CHIA DI SẢN TRONG NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHỨC TẠP: TÌNH HUỐNG 25 – 26 – 27 – 28

TÌNH HUỐNG 25

Khi còn sống, nhà văn N đã có nhiều sáng tác được nhiều bạn đọc yêu thích. Nhà văn N qua đời vào năm 2006, có để lại di chúc định đoạt toàn bộ quyền sở hữu quyền tác giả đối với những tác phẩm đã công bố và chưa công bố của ông cho các con là anh C, anh D và vợ là bà Q.

Sau khi nhà văn N qua đời, bà Q kiện đến Tòa án xin được thừa kế quyền tác giả của chồng. Tòa án xác định:

(i) Nhà văn N đã có 05 tác phẩm được công bố;

(ii) Nhà văn còn để lại bản thảo hoàn chỉnh của 03 tác phẩm.

a) Giải quyết tình huống

Trong tình huống này, di sản thừa kế là quyền tài sản (quyền sở hữu trí tuệ), do vậy việc xác định và phân chia loại di sản này có những đặc điểm riêng khác biệt so với việc xác định và phần chia loại tài sản khác là tiền và vật. Nhà văn N đã định đoạt các sản phẩm thuộc quyền sở hữu trí tuệ của mình cho những người thừa kế theo di chúc, theo đó bà Q, anh C và anh D là đồng chủ sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm của ông N. Những người thừa kế của ông N được hưởng tiền thù lao, tiền nhuận bút do người sử dụng tác phẩm của ông N công bố. Mẹ con bà Q thừa kế quyền tác giả của ông N là thừa kế tài sản liên quan đến quyền tác giả, còn những quyền nhân thân theo tính chất gắn liền với tác giả N thì thuộc về tác giả vĩnh viễn, không thể chuyển dịch theo thừa kế và dưới bất kỳ hình thức nào cho người khác. Các quyền này là: Quyền đặt tên tác phẩm, quyền đứng tên tác giả, quyền thay đổi nội dung tác phẩm, các danh hiệu tôn vinh nhà văn. Các quyền sau đây chuyển dịch được cho người thừa kế: Công bố tác phẩm, cho người khác công bố tác phẩm thông qua các hợp đồng, khởi kiện khi có hành vi xâm phạm quyền tác giả, hưởng tiền thù lao, tiền thưởng, tiền nhuận bút khi tác phẩm được sử dụng dưới bất kỳ hình thức nào. Thừa kế quyền tác giả của ông N có thời hạn là 50 năm, kể từ ngày tác giả N qua đời. 

b) Nhận xét

Tình huống trên liên quan đến việc chia di sản là quyền sở hữu trí tuệ và việc chia loại di sản này là chia thừa kế tài sản như các tài sản khác. Tuy nhiên, có sự khác biệt về thời hạn bảo hộ quyền tác giả, theo đó quyền khởi kiện về thừa kế loại di sản này được xác định tại những thời điểm khác nhau và trong thời hạn bảo hộ quyền tác giả.

TÌNH HUỐNG 26

Ông A và bà B kết hôn vào năm 1950, có 2 người con chung là chị C, anh D. Ông A qua đời vào tháng 5/2005, có để lại di chúc truất quyền thừa kế của bà B, chị C, anh D và cho chị M toàn bộ di sản. Sau các sự kiện trên, bà B kiện đến tòa án xin chia thừa kế di sản của ông A. Tòa án xác định được:

(i) Tài sản chung hợp nhất của ông A và bà B có 960.000.000 đồng;

(ii) Tài sản riêng của ông A có 25.000.000 đồng.

a) Giải quyết tình huống

Ông A đã để lại di chúc truất quyền thừa kế của vợ và các con nhưng lại định đoạt toàn bộ di sản cho chị M hưởng. Trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật của ông A, có bà B là người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015, bà B được hưởng phần di sản tối thiểu bằng 2/3 suất thừa kế được chia theo pháp luật.

– Xác định di sản của ông A từ tài sản chung hợp nhất của A, B. Di sản của ông A = 960.000.000 đồng : 2 = 480.000.000 đồng. Tổng di sản của ông A = 480.000.000 đồng + 25.000.000 đồng = 505.000.000 đồng.

– Theo Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015, bà B được hưởng = 505.000.000 đồng : 3 x 2/3 = 112.220.000 đồng.

– Chị M được hưởng theo di chúc phần di sản còn lại của ông A là: 505.000.000 đồng – 112.220.000 đồng = 392.780.000 đồng.

b) Nhận xét

Theo tình huống trên, bà B là vợ của ông A tuy bị ông A truất quyền hưởng di sản nhưng vẫn được hưởng phần tối thiểu bằng 2/3 của một suất thừa kế chia theo pháp luật nếu di sản của ông A được chia theo pháp luật. Các con của ông A và bà B là chị C và anh D bị ông A truất quyền hưởng di sản nên họ không được hưởng di sản của ông A. Họ chỉ được hưởng trong trường hợp này với điều kiện tuy họ đã thành niên mà không có khả năng lao động (khoản 2 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015). Trong tình huống này, chị C và anh D không thỏa mãn điều kiện đó, cho nên họ không được hưởng phần di sản tối thiểu như bà B được hưởng.

TÌNH HUỐNG 27

Ông A và bà B kết hôn vào năm 1950, có 3 người con chung là C, D và E. Anh C có vợ là Q và có 2 người con là T và H; anh D có vợ là L và có 2 người con là M và N. Ông A qua đời vào tháng 3/2007, có để lại di chúc truất quyền thừa kế của bà B, anh C, anh D và chị E. Di sản của ông A có 320.000.000 đồng.

Sau khi ông A qua đời, bà B kiện đến Tòa án xin thừa kế di sản của ông A.

a) Giải quyết tình huống

Trong tình huống trên, ông A đã truất quyền hưởng di sản của toàn bộ những người thừa kế tại hàng thừa kế thứ nhất gồm bà B, anh C, anh D và chị E. Nhưng theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 về những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc thì bà B là vợ của ông A vẫn được hưởng phần di sản tối thiểu của ông A là 2/3 của suất thừa kế được chia theo pháp luật. Vậy bà B = 320.000.000 đồng : 4 x 2/3 = 53.333.333 đồng.

Phần di sản còn lại của ông A không được định đoạt cho ai hưởng là: 320.000.000 đồng – 53.333.333 đồng = 266.666.666 đồng.

Do toàn bộ người thừa kế tại hàng thừa kế thứ nhất của ông A đều bị ông A truất quyền hưởng di sản và bà B tuy bị truất nhưng đã được hưởng theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 là 53.333.333 đồng. Phần di sản còn lại của ông A được chia thừa kế theo pháp luật cho những người thừa kế tại hàng thừa kế thứ hai theo quy định tại

Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo tình huống trên, những người thừa kế theo pháp luật của ông A tại hàng thứ hai gồm: T, H (con của anh C), M, N (con của anh D) đều là các cháu nội của ông A. Vậy họ được hưởng theo pháp luật tại hàng thừa kế thứ hai của ông A: T = H = M = N = 266.666.666 đồng : 4 = 66.666.666 đồng.

b) Nhận xét

Tình huống trên là tình huống rất đặc biệt, những người thừa kế theo pháp luật của ông A tại hàng thừa kế thứ nhất đều bị ông A truất quyền hưởng di sản. Nếu hàng thừa kế thứ nhất không có bà B thì toàn bộ di sản của ông A được chuyển cho những người thừa kế tại hàng thừa kế thứ hai được hưởng, đều là các cháu nội của ông A. Bà B được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, mặc dù bà B bị ông A truất quyền hưởng di sản nhưng bà vẫn được hưởng theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 là 53.333.333 đồng. Bà B hưởng di sản của ông A trong trường hợp này không với tư cách của một người thừa kế theo pháp luật mà với tư cách của người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc vì bà B đã bị truất quyền hưởng di sản thừa kế của ông A.

Theo quy định về trình tự hưởng di sản thừa kế theo hàng được quy định tại Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì các cháu nội của ông A được hưởng di sản của ông A tại hàng thừa kế thứ hai.

TÌNH HUỐNG 28

Vợ chồng ông A và bà B có 2 người con chung là C và D. Khi kết hôn với ông A, bà B đã có một người con riêng 7 tuổi là chị M. Ông A và bà B cùng chăm sóc chị M như những người con khác của ông bà. Ông A qua đời vào tháng 8/2006, không để lại di chúc. Tài sản chung hợp nhất của ông A và bà B có 720.000.000 đồng. Sau khi ông A qua đời, bà B kiện đến Tòa án xin chia di sản của ông A.

a) Giải quyết tình huống

Theo tình huống, ông A qua đời không để lại di chúc, do vậy di sản của ông được chia theo pháp luật. Chị M được ông A chăm sóc, nuôi dưỡng bình đẳng như những người con khác của ông với bà B, do vậy theo quy định tại Điều 654 Bộ luật Dân sự năm 2015, về quan hệ thừa kế giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế, chị M được thừa kế theo pháp luật hưởng di sản của ông A.

– Di sản của ông A từ tài sản chung hợp nhất với bà B = 720.000.000 đồng : 2 = 360.000.000 đồng.

– Hàng thừa kế thứ nhất của ông A gồm: bà B, chị M (con riêng của bà B được ông A chăm sóc, nuôi dưỡng như con đẻ), C và D. Vậy B = M = C = D = 360.000.000 đồng : 4 = 90.000.000 đồng.

b) Nhận xét

Ông A không để lại di chúc, do vậy toàn bộ di sản của ông A được chia theo pháp luật. Hàng thừa kế thứ nhất của ông A có vợ là bà B và hai người con chung là C và D. Chị M là con riêng của bà B nhưng được thừa kế theo pháp luật nhận di sản của ông A, do giữa ông A và chị M đã thể hiện được nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con thì họ được thừa kế di sản của nhau, do vậy hàng thừa kế thứ nhất của ông A có 4 người, mỗi người được hưởng 90.000.000 đồng di sản của ông A.

Tham khảo: Pháp Luật Về Thừa Kế Ở Việt Nam-Nhận Thức Và Áp Dụng

PGS.TS. Phùng Trung Tập

MỜI MUA ĐẤT NỀN TÂY NINH

  • Tài sản bỏ tiền vào túi bạn, còn tiêu sản thì lôi tiền ra khỏi túi bạn. Để được giàu có, bạn phải mua tài sản.
  • Mời bạn cùng tìm mua đất nền tiềm năng tăng giá cao, giá trị đầu tư ban đầu thấp tại đây: https://tritininvest.com/loai-bat-dong-san/dat-nen-tay-ninh/

Bài viết liên quan

TÌNH HUỐNG THỪA KẾ QUYỀN TÀI SẢN ĐỐI VỚI QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP

TÌNH HUỐNG Ông Nguyễn Văn A tạo ra sáng chế thuộc lĩnh vực công nghệ thông...

Tiếp tục đọc

TÌNH HUỐNG THỪA KẾ QUYỀN TÁC GIẢ CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT, KHOA HỌC

TÌNH HUỐNG 1 Nhà văn Nguyễn Văn A, sau khi qua đời ở tuổi 83, có để lại 5...

Tiếp tục đọc

CHIA DI SẢN TRONG NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHỨC TẠP: TÌNH HUỐNG 29 – 30 – 31 – 32

TÌNH HUỐNG 29 Ông A và bà B kết hôn vào năm 1960, không có con chung. Vào năm 1970,...

Tiếp tục đọc

Tham gia thảo luận

Chat zalo với Trí Tín
Chat ngay