CHIA DI SẢN TRONG NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHỨC TẠP: TÌNH HUỐNG 5
TÌNH HUỐNG 5
Ông bà A, B kết hôn với nhau vào năm 1950, có 7 người con chung là anh C, anh D, anh B, anh F, anh G, anh H và chị K.
Vào năm 1961, ông A chung sống với bà Q như vợ chồng và đã có với bà Q 3 người con chung là chị M, chị N và anh T.
Ông A qua đời vào tháng 3/2006 có để lại di chúc cho tất cả các con của ông 1/2 di sản, truất quyền thừa kế của bà và cho 2 người em ruột của ông là ông X và ông Y hưởng m người 1/4 di sản của ông. Khi ông A qua đời, ông X mai tầ cho ông hết 8.000.000 đồng.
Qua sự kiện trên, bà B có đơn yêu cầu Tòa án quận L chia thừa kế di sản của ông A. Tòa án xác định được:
(i) Tài sản chung hợp nhất của ông A, bà B có 320.000.000 đồng;
(ii) Tài sản của ông A và bà Q chung nhau có 960.000.000 đồng.
a) Giải quyết tình huống
Theo tình huống trên, nhận thấy ông A đã có vợ là bà B nhưng sau đó lại chung sống với bà Q như vợ chồng. Tình huống đặt ra nhằm giải quyết những khúc mắc trong việc chia thừa kế di sản của những người có nhiều vợ. Tuy nhiên, tình huống trên cần được đặt trong các hoàn cảnh khác nhau để giải quyết.
Nếu vụ việc xảy ra ở miền Bắc Việt Nam thì quan hệ giữa ông A và bà Q là quan hệ trái pháp luật, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 ở miền Bắc, do vậy bà Q không phải là vợ của ông A. Nếu tình huống trên xảy ra ở miền Nam Việt Nam thì biện pháp giải quyết vụ việc có sự khác biệt rõ rệt. Một câu hỏi cần được giải đáp là tại sao lại có sự khác biệt trong cách giải quyết cùng một vấn đề ở hai miền Nam và Bắc? Sự khác biệt đó có những lý do rất đặc biệt. Biết rằng ngoài việc xác định quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật thì trong những giai đoạn lịch sử nhất định vẫn cần thiết phải đánh giá đúng mức những quan hệ hôn nhân mặc dù không tiến bộ, trái với pháp luật hiện hành nhưng vẫn tồn tại và được thừa nhận ở Việt Nam, giải pháp giải quyết những tàn dư của chế độ thực dân, phong kiến còn sót lại.
Để giải quyết vấn đề đặt ra, Tòà án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 690-DS ngày 29/4/1960 hướng dẫn xử lý ly hôn và các vấn đề có liên quan đến việc ly hôn vì chế độ đa thê. Nhằm từng bước xóa bỏ những tàn dư như vậy của chế độ cũ, pháp luật của Nhà nước ta đã xác định giới hạn đình chỉ quan hệ hôn nhân trái với pháp luật hiện hành, đó là: Những người có nhiều vợ trước ngày ban hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, do Sắc lệnh số 02-SL ngày 13/01/1960 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì không đặt vấn đề vi phạm pháp luật. Quan hệ hôn nhân của vợ chồng xác lập trước ngày 13/01/1960 (ở miền Bắc) tuy có vi phạm chế độ một vợ một chồng nhưng vẫn tồn tại và được coi là không trái pháp luật. Theo quy định trên, khi chồng chết các người vợ được thừa kế của chồng hoặc khi các vợ chết trước thì chồng được thừa kế của các vợ.
Quy định này chỉ được xem như giải pháp quá độ phù hợp với thực tế lúc bấy giờ là do hoàn cảnh lịch sử để lại. Về nguyên tắc pháp luật quy định nghiêm cấm người đang có vợ, có chồng lại chung sống với người khác như vợ chồng. Để khắc phục và xoá bỏ những tàn dư của chế độ đa thê như vậy, việc quy định giới hạn về mặt thời gian chính là sự khẳng định tiến tới việc thực hiện và bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Thực chất pháp luật hôn nhân và gia đình đã tuyên bố chấm dứt các quan hệ hôn nhân đa thê kể từ sau ngày 13/01/1960 ở miền Bắc Việt Nam. Căn cứ vào những cơ sở pháp lý trên, trước hết đặt tình huống trên xảy ra ở miền Bắc Việt Nam. Theo đó, tình huống trên được giải quyết như sau:
– Nếu tình huống trên xảy ra ở miền Bắc, ông A đang có vợ là bà B nhưng ông đã chung sống với bà Q như vợ chồng, do vậy bà Q và ông A đã vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và họ không thể được thừa nhận là vợ chồng. Từ những căn cứ và kết luận trên thì tài sản của ông A và bà B là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng; còn tài sản của ông A chung với bà Q thuộc quan hệ sở hữu chung theo phần. Theo đặc điểm của sở hữu chung theo phần thì chủ thể nào tạo ra nhiều, đóng góp nhiều thì được hưởng phần quyền tài sản nhiều và ngược lại. Nhưng theo tình huống trên, không có căn cứ để xác định công sức của ông A và bà Q cùng tạo ra khối tài sản chung theo phần trong trường hợp đặc biệt này thì coi như phần quyền tài sản của ông A và bà Q là ngang nhau trong khối tài sản chung theo phần đã xác định. Vì vậy, phần tài sản của ông A chung với bà Q vẫn thuộc quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng ông A và bà B mà không phải là tài sản riêng của ông A. Việc xác định này rất quan trọng vì nhằm để cá biệt hóa tài sản của chồng hoặc của vợ trong quan hệ hôn nhân, liên quan trực tiếp đến giá trị khối di sản của người chồng hoặc người vợ sau khi chết để lại. Như vậy, tài sản chung hợp nhất của ông A và bà B có trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp là: 320.000.000 dong + (960.000.000 dong : 2) = 800.000.000 đồng. Vì ông A và bà Q sở hữu chung theo phần 960.000.000 đồng, theo đó phần quyền tài sản của ông A trong khối tài sản chung với bà Q được xác định là 960.000.000 đồng chia đôi. Bà Q có 480.000.000 đồng; ông A có 480.000.000 đồng. Nhưng 480.000.000 đồng là tài sản chung hợp nhất của ông A và bà B có trong thời kỳ hôn nhân. Theo cách xác định trên, tổng tài sản của ông A và bà B có 800.000.000 đồng. Theo quy định của pháp luật thì di sản thừa kế của ông A được xác định từ tài sản chung hợp nhất với bà B là 1/2. Vậy di sản của ông A để lại là 800.000.000 : 2 = 400.000.000 đồng (còn 400.000.000 đồng thuộc quyền sở hữu của bà B).
+ Theo tình huống, ông X mai táng cho ông A hết 8.000.000 đồng, do vậy khoản mai táng phí này được trừ vào di sản của ông A. Vậy di sản còn lại của ông A sau khi đã trừ đi mai táng phí: 400.000.000 đồng – 8.000.000 đồng = 392.000.000 đồng.
+ Ông A đã truất quyền thừa kế của bà B nhưng theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015, bà B vẫn được hưởng: 392.000.000 đồng : 11 x 2/3 = 23.757.575 đồng.
+ Phần di sản còn lại của ông A được chia theo di chúc. Mười người con của ông A được hưởng 1/2 di sản. Vậy các con của ông A mỗi người được hưởng là: C = D = E = F = G= H = K = M= N= T = 184.121.212 đồng : 10 người = 18.412.121 đồng.
+ Theo di chúc thì ông X = Y = 184.121.212 đồng : 2 = 92.060.606 đồng.
– Nếu vụ việc trên xảy ra ở miền Nam Việt Nam thì một người có nhiều vợ trước ngày 25/3/1977 (ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước) mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì tất cả những người vợ đều được coi là người thừa kế tại hàng thừa kế thứ nhất hưởng di sản của chồng và ngược lại, khi các vợ chết trước, chồng được thừa kế của các vợ.
Việc nhận thức xác đáng quy định trên có ý nghĩa thực tiễn quan trọng trong việc củng cố pháp luật hôn nhân và gia đình đồng thời góp phần nâng cao ý thức tuân theo pháp luật trong Nhân dân.
Xác định tài sản của ông A trong từng cặp quan hệ với bà B và bà Q:
Di sản của ông A từ khối tài sản chung với bà B = 320.000.000 đồng : 2 = 160.000.000 đồng;
Di sản của ông A trong khối tài sản chung với bà Q = 960.000.000 đồng : 2 = 480.000.000 đồng.
+ Vậy tổng di sản của ông A có 160.000.000 đồng + 480.000.000 đồng = 640.000.000 đồng. Sau khi trừ mai táng phí, di sản của ông A còn lại là 632.000.000 đồng.
+ Tuy bà B bị ông A truất quyền thừa kế nhưng theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015, bà B vẫn được là: 632.000.000 đồng : 12 x 2/3 = 35.111.111 đồng. Cũng tương tự như vậy, bà Q là vợ của ông A được hưởng di sản của ông không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Bà Q = 632.000.000 đồng : 12 x 2/3 = 35.111.111 đồng. Phần di sản còn lại của ông A sau khi đã tính phần thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc mà bà B và bà Q được hưởng: 632.000.000 – (35.111.111 đồng x 2) = 561.777.778 đồng.
+ Phần di sản còn lại của ông A được chia theo di chúc. Ông A để lại di chúc cho 10 người con được hưởng 1/2 di sản, vậy mỗi người được hưởng: 280.888.888 đồng : 10 = 28.088.888 đồng;
+ Ông X = Y = 280.888.888 đồng : 2 = 140.444.444 đồng.
b) Nhận xét
Cùng một tình huống nhưng lại có hai cách giải quyết khác nhau với những lý do đã được viện dẫn ở trên. Tuy nhiên, dưới chế độ Mỹ – Ngụy ở miền Nam trước năm 1975 cũng đã ban hành Sắc lệnh số 02 ngày 02/01/1959 quy định cấm chế độ đa thê, đồng bào miền Nam sống dưới ách kìm kẹp của Mỹ – Ngụy cũng buộc phải tuân theo những quy định của Sắc lệnh đó. Vậy thì việc quy định một người ở miền Nam có nhiều vợ trước ngày 25/3/1977 được xác định là không trái pháp luật có cần thiết và có đúng hay không? Vấn đề trên được đặt ra nhằm làm sáng tỏ quy định của pháp luật lấy ngày 25/3/1977 làm thời điểm để áp dụng pháp luật đối với người miền Nam có nhiều vợ trước hoặc sau thời điểm trên với những lý do:
– Về thực chất, pháp luật của chế độ Mỹ – Ngụy chỉ được áp dụng tại những vùng mà chúng kiểm soát còn những vùng tranh chấp giữa quân giải phóng và địch thì Nhân dân không chịu sự kiểm soát về mọi mặt của địch.
– Nhà nước ta là nhà nước thống nhất cần phải có một hạn định để pháp luật của chế độ mới được thống nhất thực hiện. Như vậy, quy định như trên là phù hợp với đời sống thực tế, đã thể hiện nguyên tắc khách quan trong việc xem xét vấn đề đặc thù và tổng thể toàn xã hội. Hơn nữa, xem xét và đánh giá một sự kiện xảy ra trong đời sống thực tế cần thiết phải xem xét sự kiện đó đúng với hoàn cảnh xã hội lúc nó phát sinh và phải đặt sự kiện đó trong mối liên hệ về mặt không gian và thời gian nó tồn tại.
Tham khảo: Pháp Luật Về Thừa Kế Ở Việt Nam-Nhận Thức Và Áp Dụng
PGS.TS. Phùng Trung Tập
MỜI MUA ĐẤT NỀN TÂY NINH
|
Tham gia thảo luận