TÍNH TOÁN LỢI TỨC ĐẦU TƯ – PHẦN 3
PHẦN 3 – SO SÁNH BA PHƯƠNG PHÁP
Chúng tôi đang đưa ra hai bài học ở đây. Một là, ba phương pháp mà chúng tôi đánh giá có thể dẫn bạn tới việc đưa ra những quyết định khác nhau, tùy theo phương pháp mà bạn dựa vào. Hai là, phương pháp tính giá trị hiện tại ròng là lựa chọn tốt nhất khi có sự xung đột giữa các phương pháp. Hãy cùng xem xét một ví dụ khác và xem những khác biệt đó diễn ra như thế nào.
Giả định rằng công ty bạn có 3.000 đô-la để đầu tư. (Số liệu nhỏ giúp các phép tính dễ theo dõi hơn.) Công ty có thể đầu tư vào ba loại máy tính khác nhau, như sau:
- Phương án đầu tư A: trả về 1.000 đô-la mỗi năm trong thời gian ba năm
- Phương án đầu tư B: trả về 3.600 đô-la cuối năm thứ nhất
- Phương án đầu tư C: trả về 4.600 đô-la cuối năm thứ ba
Tỷ suất lợi tức yêu cầu – tức tỷ suất lợi tức tối thiểu ở công ty bạn là 9%, và cả ba phương án đầu tư đều có mức độ rủi ro ngang nhau. Nếu bạn chỉ có thể chọn một phương án, đó sẽ là phương án nào? Phương pháp tính thời gian hoàn vốn cho chúng ta biết thời gian có thể lấy lại vốn đầu tư ban đầu. Giả định việc hoàn vốn diễn ra vào cuối mỗi năm, chúng ta sẽ có kết quả như sau:
- Phương án A: ba năm
- Phương án B: một năm
- Phương án C. ba năm
Chỉ bằng phương pháp này thì rõ ràng phương án đầu tư B sẽ nắm chắc phần thắng. Nhưng nếu thực hiện các phép tính giá trị hiện tại ròng, chúng ta sẽ thu được kết quả như sau:
- Phương án A: – 469 đô-la (âm!)
- Phương án B: 303 đô-la
- Phương án C. 552 đô-la
Lúc này thì phương án A bị loại và phương án C trông có vẻ là lựa chọn tốt hơn cả. Còn phương pháp tính tỷ suất sinh lợi nội bộ nói lên điều gì?
- Phương án A: 0%
- Phương án B: 20%
- Phương án C: 15.36%
Thật thú vị! Nếu chỉ áp dụng phương pháp tính IRR, chúng ta sẽ chọn phương án B. Nhưng phép tính NPV lại nghiêng về phương án C, và đó sẽ là quyết định đúng đắn. Như NPV cho chúng ta thấy, ở phương án C, giá trị tiền tệ tính theo thời giá hiện tại cao hơn phương án B.
Giải thích ư? Mặc dù B cho tỷ suất sinh lợi cao hơn C, nhưng ta chỉ thu được lợi nhuận trong một năm. Với C, ta có tỷ suất sinh lợi thấp hơn, nhưng tỷ suất sinh lợi đó lại kéo dài suốt ba năm. Và ba năm với tỷ suất sinh lợi 15,3% sẽ tốt hơn là một năm với tỷ suất sinh lợi 20%. Tất nhiên, nếu bạn giả định bạn có thể tiếp tục đầu tư tiền với tỷ suất sinh lợi 20%, thì B sẽ là lựa chọn hợp lý hơn – tuy nhiên phương pháp NPV không thể tính được các phương án đầu tư giả định trong tương lai (mà chưa có dữ liệu để tin rằng nó có khả năng xảy ra). Nó chỉ định được là công ty có thể tiếp tục có tỷ suất sinh lợi là 9%.
Nhưng ngay cả như vậy: nếu chúng ta lấy số tiền 3.600 đô-la mà phương án đầu tư B mang về cho chúng ta ở cuối năm thứ nhất, và tái đầu tư với tỷ lệ sinh lợi 9%, đến cuối năm thứ ba chúng ta vẫn thu được về ít hơn so với lợi nhuận từ phương án đầu tư C.
Vì vậy, việc dùng các phép tính NPV cho các quyết định đầu tư luôn hợp lý, ngay cả khi ban quyết định sử dụng một trong các phương pháp còn lại để thảo luận và trình bày.
Trích từ sách Financial Intelligence, tác giả Karen Berman, Joe Knight, John Case
Mời bạn xem tiếp >>> TÍNH TOÁN LỢI TỨC ĐẦU TƯ – PHẦN 4
MỜI MUA ĐẤT NỀN TÂY NINH
|
Tham gia thảo luận